ĐÀO TRUNG ĐẠO thi sĩ / thi ca (123)
Edmond
Jabès
Chương
3
Quyển
Sách
Mở đầu cho mục I của Et tu seras dans le livre/Và ngươi sẽ ở
trong quyển sách là lời của giáo sĩ Reb Stein dùng làm đề từ: “Enfant, lorsque j’écrivis, pour la première
fois, mon nom, j’eus conscience de commencer un livre/Này con, khi ta viết,
lần đầu tiên, tên ta, ta đã ý thức được việc bắt đầu quyển sách”. Như chúng ta
đã biết những giáo sĩ trong quá khứ Jabès nêu tên là những nhân vật tưởng tượng.
Sau câu hỏi của giáo sĩ Reb Abbani với các môn đệ về “Ánh sáng là gì?” là lời của
giáo sĩ Reb Hati cho rằng những tờ sách là những cánh cửa mà những từ của niềm
im lặng vượt qua, kỷ niệm về những từ được mực đặt cố định trên tờ giấy, và ánh
sáng nằm trong sự vắng mặt những từ này [42].
Jabès tự tra vấn: sống lưu đầy phải chăng cảm nhận như bị đẩy lùi về quá khứ
qua những giọt lệ và thời gian cho tới tận suối nguồn của sa mạc nơi tổ tiên đã
liều thân băng vượt? Phải chăng trên ngưỡng của trang sách rộng mở ta có thể
tìm lại vết thương của một nòi giống xuất phát cũng chính từ quyển sách với những
con đường khổ nạn? Câu trả lời là: “không có gì ngoài sự khổ đau mà quá khứ và
sự tiếp nối hòa nhập với quá khứ và khổ đau của văn tự.”[43]
LQ1 cũng
là truyện kể (récit) về Sarah và Yukel – đôi tình nhân trẻ gốc Do thái bị cưỡng
bách vào trại tập trung. Trong thời gian bị đầy ải chờ ngày vào Lò Thiêu Yukel
chết còn Sarah sau khi thoát trở về nhưng thành điên loạn – gồm những đối thoại
và những suy tưởng được cho là của những giáo sĩ tưởng tượng. Đó là truyện kể về
một tình yêu bị con người và những từ (mots) hủy hoại: tuyện kể này có kích thước
của một quyển sách và của sự dai dẳng đắng cay của một câu hỏi lang thang. Dai
dẳng vì theo Jabès câu trả lời cho câu hỏi luôn là một câu hỏi tiếp theo. Phải
chăng Jabès người kể chuyện cũng chính là Yukel? Tác giả cho người đọc cảm nhận
hai là một một là hai (Tu es celui qui
écrit et qui est écrit). Thế nhưng: “Đối với một nhà văn, sự khám phá của
tác phẩm hắn sẽ viết có liên hệ vừa với sự huyền nhiệm vừa với vết thương; với
sự huyền nhiệm của vết thương.”[44] Tác giả cho rằng dường
như mình đi lại giữa đời sống và cái chết của nòi giống từ nhiều thế kỷ, rằng
mình đã mang theo quyển sách từ rất lâu và “quyển sách đã trở thành nơi chốn độc
nhất ở đó tất cả những con đường gặp nhau và thúc dục chúng ta; nhưng một tiếng
kêu đã xuyên qua tác giả và nỗi khổ đau của mình được xây đắp trên chính tiếng
kêu này buộc mình băng ngang từ đại dương này qua đại dương kia.”
Theo Jabès, ở trong quyển sách có nghĩa đặt những
câu hỏi trong quyển sách và tham dự vào đó, mang vác trách nhiệm của một từ hay
một câu văn hay một chương sách. “Tôi ở trong quyển sách. Quyển sách là vũ trụ
của tôi, xứ sở của tôi, mái nhà của tôi và niềm bí ẩn của tôi. Quyển sách là
hơi thở và sự nghỉ ngơi của tôi. Tôi thức dậy với trang sách người ta lật qua,
tôi ngủ với trang sách người ta ngủ. Khả năng đáp lời: “Tôi thuộc về giòng giống
của những từ, với những từ này người ta xây những nơi cư ngụ”, nghiêm cẩn biết
rằng câu trả lời này vẫn lại là một câu hỏi, rằng nơi cư ngụ này không ngừng bị
đe dọa.”.[45]
Quyển sách cũng chứa đựng Thượng đế, những bậc
hiền nhân, những nhà tiên tri; nếu như những nhà bác vật, những thi sĩ, và nếu
con người hiện hữu chính vì tên tuổi họ nằm trong quyển sách. Cũng vậy thế giới
hiện hữu bởi quyển sách hiện hữu: hiện hữu có nghĩa tăng trưởng với cái tên của
nó. Quyển sách cũng là tác phẩm của chính nó, nó là mặt trời sinh đẻ ra biển cả,
nó là biển cả nâng giấc trái đất, nó là trái đất khắc họa hình dáng con người.
Nếu chẳng phải vậy thì mặt trời, biển cả, trái đất và con người sẽ là trung tâm
của ánh sáng không có đối tượng, là nước dịch chuyển không nơi xuất phát hay
nơi trở lại.Vĩnh cửu dùng động từ để tách khoảnh khắc. Và quyển sách là bội
nhân của quyển sách.
Trở lại với Yukel: Jabès
độc thoại: ngươi chẳng bao giờ ở đó (là)
nhưng ở đâu đó những nơi khác (ailleurs),
ở trước hay ở sau ngươi như mùa màng tiếp nối nhau, ở trong quá khứ hay ở trong
tương lai giống như những chữ (syllables)
di chuyển từ đêm sang ngày thật ảo huyền có thể lẫn với chuyển động của cây viết,
nếu muốn nắm bắt trong hiện tại phải thật lẹ: “Cái còn ở lại của cây viết đi
ngang qua, chính là từ với những nhánh cành và những chiếc lá biếc hay đã chết,
từ được phóng vào tương lai để thông dịch nó.”[46] Jabès
đặt câu hỏi với Yukel: ‘Yukel, ngươi đã băng qua mộng mơ và thời gian. Với những
ai nhìn thấy ngươi – nhưng họ đâu có thấy ngươi; ta nhìn thấy ngươi – ngươi là
hình dáng chuyển dịch trong sương mù. Yukel ngươi đã là ai? Yukel, ngươi là ai
vậy? Ngươi sẽ là ai? “Ngươi” đôi khi chính là “Ta”. Ta xưng “Ta” và ta không là
“Ta”. “Ta” chính là ngươi và ngươi sẽ chết. Ngươi bị khoét rỗng. Từ nay trở đi
ta sẽ chỉ một mình.”[47]
_______________________________
[42] Edmond Jabès, LQ1 trang 29: Et Reb Hati: “Les
feuillets du livre sont des portes que les vocables franchissent, poussés par
leur impatience à se regrouper, à retroouver leur transparence au bout de
l’œuvre traversée. “Le souvenir des mots est fixé par l’encre sur le papier.
“La lumière est dans leur absence que tu lis.”
[43] Sđd trang 30: ...rien que cette douleur dont le passé et la
continuité se confondent avec ceux de l’écriture.
[44] Sđd trang 32: Pour un écrivain, la découverte de l’ouvrage qu’il écrira
tient, à la fois, du miracle et de la blessure; du miracle de la blessure.
[45] Sđd trang 36: Je suis dans le livre. Le livre est mon univers, mon
pays, mon toit et mon énigme. Le livre est ma respiration et mon repos. Je me lève
avec la page que l’on tourne, je me couche avec la page que l’on couche.
Pouvoir répondre: “Je suis de la race des mots avec lesquels on bâtit les
demeures”, sachant pertinemment que cette réponse est encore une question, que
cette demeure est menacée sans cesse.
[46] Sđd trang 37: Le présent, pour toi, est ce passage trop rapide pour
être saisi. Ce qui reste du passage de la plume, c’est le mot aves ses branches
et ses feuilles vertes ou déjà mortes, le mot projeté dans le future pour le
traduire.
[47] Sđd trang 38: Yukel, tu as traversé le songe et le temps. Pour ceux
qui te voient – mais ils ne te voienet pas; je te vois – tu est une forme qui
se deplace dans le brouillard.
Qui étais-tu, Yukel?
Qui es-tu, Yukel?
Qui seras-tu?
“Tu”, c’est quelquefois “Je”.
Je dis “Je” et je ne suis pas
“Je”. “Je” c’est toi et tu vas mourir, Tu est vidé.
Désormais, je serai seul.
(còn
tiếp)
ĐÀO TRUNG ĐẠO
Comments
Post a Comment