ĐÀO TRUNG ĐẠO thi sĩ / thi ca (121)
ĐÀO TRUNG ĐẠO
(121)
Edmond
Jabès
Chương 3
Quyển
Sách
Edmond
Jabès trong phần mở đầu
quyển Le Livre des Questions nhắc lại lời của giáo sĩ Rida: “Có Quyển Sách của Thượng đế [và] bằng quyển sách này
Thượng đế tự tra hỏi và có quyển sách của con người, quyển sách này có tầm vóc
quyển sách của Thượng đế.”[38]
Trước đó Jabès viết: “Ngươi là kẻ viết và [cũng] là kẻ được
viết ra.”[39] Hai câu nói này chỉ ra lộ trình dấn thân vào thi ca của
Jabès và cũng chỉ ra những cánh cửa đi vào của quyển sách. Cũng có thể coi hai câu nói này là “mật
khẩu” để đi vào thi ca Jabès. Sau tập thơ Je
bâtis ma demeure Jabès chỉ viết những quyển sách và những quyển sách này tạo
thành phần chính yếu trong toàn bộ tác phẩm của Jabès: Le Livres des Questions/Quyển
sách Câu hỏi (1963) gồm 7 chương Le Livre
des Questions (1963), Le Livre de
Yukel (1964), Le Retour au Livre
(1965), Yaël (1967), Elya (1969), Aely (1972), El, ou le
dernier livre (1973); Le Livres des
Ressemblances (1976). Năm 1990 nhà Gallimard in chung tập này với Le Soupçon Le Désert (1978) và L’Ineffable L’Inaperçu (1980) , Le Petit Livre de la subversion hors de soupçon
(1982), Le Livre du Dialogue (1984), Le
Livre des Marges (1975, 1984), Le
Livre du Partage (1987), Le Livre de l’Hospitalité (1991). Tất cả những Quyển sách Jabès viết có
thể coi chỉ là một Quyển Sách nhằm mục đích duy nhất hướng tới Quyển sách không lời – Quyển Sách của Thượng
đế – không
thể được biểu đạt (inexpressible) và chỉ có Cái chết mới có thể viết được. Quyển sách của Thượng đế theo Jabès tuy là quyển sách vĩ đại nhất nhưng lại không thể nhìn thấy vì không được
viết ra: Thượng đế đã rút lui khỏi vũ trụ và sự Sáng tạo, để lại khoảng trống rỗng
của sự vắng mặt. Đó là Quyển sách của mọi Quyển sách.
Nếu
cho rằng Quyển sách của Jabès là một ẩn dụ thì dường như ẩn dụ này không chỉ có
một ý nghĩa nhưng mở ra những diện mạo mới từ quyển này sang quyển kế tiếp.
Jabès tuyên bố: “Hình thức vô hình của quyển sách là thân xác dễ thấy của Thượng
đế.” Tuy quyển sách của Jabès thường qui chiếu về Văn tự và đạo Do thái nhưng
không vì vậy cái này là chìa khóa mở ra cái kia dủ cho có sự trở thành đồng nhất
giữa nhà văn/thi sĩ với người Do thái. Theo Jabès, quyển sách không phải là một
hệ thống khép kín. Để làm rõ ý tưởng này Jabès so sánh Quyển sách với quyển tiểu
thuyết. Nhà văn viết tiểu thuyết đi theo một chiều hướng đối nghịch với người
viết Quyển sách bởi cả người viết lẫn các nhân vật trong tiểu thuyết đề bị bó
buộc nằm trong quyển tiếu thuyết và kéo quyển tiểu thuyết vào tiếng nói của
mình. Jabès viết: “Viết một quyển sách có nghĩa liên kết tiếng nói của bạn với
tiếng nói thực sự (virtual voice) của những cái lề (margins). Ý tôi muốn nói là
lắng nghe những chữ bơi lội trong mực như hai mươi sau con cá chưa mở mắt trước
khi chúng được sinh ra cho bạn nhìn thấy, điều này có nghĩa, trước khi chúng chết
dấp trong tiếng kêu tình yêu cuối cùng của chúng.”[38]
Chiều
kích của Quyển sách của Jabès: hiện hữu đây đó (être ailleurs) và định vị theo
cách khác ở đâu đó. Luôn tiến thêm một bước về phía trước như đi trên sa mạc
khi vết chân vừa đi bị xóa bỏ. Quyển sách của Jabès cũng là bội nhân những quyển
sau kế tục quyển trước nhưng không phải là sự lập lại của chủ thể viết: mỗi quyển
sách được viết ra bởi nhiều bàn tay, được viết ra hơn một lần, tiếp tục viết ra
trong thời gian. Trong La Mémoire des
Mots Jabès viết: “Tay này qua tay kia,” “bàn tay là ở trong tương lai.”
Jacques
Derrida dùng phân tích hủy tạo diễn giải về việc quyển sách của Jabès từ ẩn dụ
(métaphore) chuyển thành hoán dụ (métonymie): “Đây rõ ràng là vấn đề của một việc
làm, một sự giải phóng, một sự nảy sinh chầm chậm của thi sĩ bằng bài thơ mà hắn
ta là người cha. Như vậy thi sĩ là chủ thể
của quyển sách, là bản thể và chủ nhân của quyển sách, cũng là người phục vụ và
chủ thể của quyển sách. Và quyển sách cũng rõ ra là chủ thể của thi sĩ, hữu
phát ngôn và nhận thức, kẻ viết trong
quyển sách về quyển sách. Do chuyển vận
này quyển sách, được biểu đạt bởi tiếng
nói của thi sĩ, tự gập lại và kết nối với chính nó, trở thành chủ
thể tự nội và tha qui, chuyển vận này không phải là một sự phản suy thuần lý
hay phê bình, mà trước hết là thi ca và lịch sử. Bởi vỉ chủ thể tự tan vỡ và mở
ra nơi quyển sách trong khi tự dung hiện. Văn tự tự mình viết ra nhưng chìm nghỉm
trong chính sự dung hiện của nó. Như thế, ở bên trong quyển sách này, [vì]
chính nó tư duy bất tận về mình, nó triển khai như một tra hỏi đớn đau trên
chính sự khả hữu của nó, hình thức của quyển sách tự hình dung [...] được hoán
dụ theo chiều hướng “ đó là sự sản sinh ra chính Thượng đế quyển Le Livre des Questions mô tả như vậy.”[39]
Quyển sách của con người là một quyển sách của
vấn đề/tra vấn (Le livre de lhomme est un livre de question.)
_________________________________________
[38]
Edmond Jabès: Writing a book means joining your voice to the virtual voice of
the margins. It means listening to the letters swimming in the ink like
twenty-six blind fish before they are born for your eyes, that is to say,
before they die fixed in their last cry of love.
[39]
Jacques Derrida, L’Écriture et la
Différence trang 100-101: Le poète est donc bien le sujet du livre, sa
substance et son maître, son serviteur et son thème. Et le livre est bien le
sujet du poète, être parlant et connaissant qui écrit dans le live sur le
livre. Ce mouvement par lequel le livre, articulé
par la voix du poète, se plie et se relie à soi, devient sujet en soi et pour
soi, ce mouvement n’est pas une réflexion spéculative ou critique, mais d’abord
poésie et histoire. L’Écriture s’écrit mais s’abîme aussi dans sa propre
représentation. Ainsi, à l’interieur de ce livre, qui se réflechit infiniment
lui-même, qui se developpe comme une douloureuse interrogation sur sa propre
possibilité, la forme du live se répresente elle-même [...] par une autre
direction de la métonymie – mais jusqu’à quel point est autre? – c’est la
géneration de Dieu lui-même que le Livre
des questions décrit ainsi,
(còn
tiếp)
ĐÀO TRUNG ĐẠO
Comments
Post a Comment