bút ký Phan Tấn Uẩn
Đường Phan Đình Phùng Đàlạt những năm 1960, nơi chúng tôi thường lên vui chơi vào các dịp hè 1962, 1963 |
ĐÀ LẠT
VÀ CUỘC TẢN CƯ VỀ HUẾ
Từ một vùng
đất hoang vu của dân tộc thiểu số thuộc bộ tộc K'Ho hiện nay, sau khám phá của
bác sĩ Yersin (tháng 6 năm 1893), người Pháp đã quy hoạch và xây dựng lên thành
phố Đàlạt. Đàlạt trở thành một trung tâm du lịch và giáo dục của Đông Dương
trong nửa đầu thế kỷ 20.
Ngày … tháng … năm 194…,tiếng khóc chào đời của tôi cất
lên giữa thành phố cao nguyên lúc ba tôi đang là Chánh văn phòng Tòa Công Sứ
Pháp (Tòa Thị Chính). Tản cư ra Huế tháng 8 /1945, lúc đó tôi là đứa bé chỉ biết
khóc nhè, làm rộn người khác. Những năm 1962, 63 , vào mấy tháng hè tôi từ
SaiGon lên Đàlạt ở với mẹ và em gái tại
nhà Bác Hai đường Phan Đình Phùng , nhưng chẳng nhớ được gì về Đàlạt thuở thiếu
thời. Phải đến tháng 10 năm 2014 về Việt Nam giỗ ba tôi, mới có dịp gặp mặt
đông đủ các thế hệ già trẻ . Buổi họp mặt đã cho tôi hình dung cuộc sống của
gia đình tại Đàlạt và cuộc tản cư về Huế năm 1945…
"
Nhà cũ chúng tôi nằm trên khu đất cao phía Đông gần ngôi chợ trung tâm,đến đường
phố chính ở phía dưới qua một vườn hoa ngoài sân, và một lối đi lát gạch dẫn đến những bậc thềm bước
xuống đường. Con đường phía sau nhà dành cho sinh hoạt gia đình với xe cộ vô ra
thường xuyên. Đứng giữa sân nhà có thể nhìn thấy Hồ Xuân Hương , xa xa là ga xe
lửa. Đôi khi từ trại tù nghe tiếng kèn báo hiệu trên một đồi cao.Đến khu chợ
Đàlạt bên trái phải bước xuống nhiều dãy bậc cấp. Theo lời mẹ kể, thời gian gia
đình chúng tôi sinh sống ở Đàlạt là thời hạnh phúc vàng son nhất trong đời mẹ.
Tiền bạc dư dả, tôi tớ đầy đủ, chợ búa đông vui giá rẻ, chuyện ăn uống không
làm mẹ bận tâm. Thường
mỗi lần đi làm về, chưa kịp cởi áo khoát,ba tôi bế một thằng nhóc lên rồi dúi
cái cằm có râu ngắn vào ngực làm cho nó cười hắc lên. Đơn giản hình bóng ba chỉ
có thế. Những ngày cuối tuần, thỉnh thoảng
ông tổ chức các buổi hòa nhạc với dàn kèn trống, đàn tranh , đàn nhị, đàn bầu...,
vì chính ba tôi cũng chơi các loại đàn nầy khá thuần thục do thuê thầy dạy đàn
từ trước. Bên cạnh các cuộc vui đàn hát, còn có những ván bài - gọi là
"tài bàn" - giữa những bạn thân của ba , trong đó tôi chỉ nhớ được
tên tuổi nhà văn hóa Trần Thanh Mại. Năm 1999, bà Trần Thị Linh Chi, con gái
bác Trần Thanh Mại từ Cần Thơ lên SaiGon dự đám giỗ ba tôi tại nhà chị tôi ,
tôi có dịp nhìn thấy tận mắt hình bóng cũ tình bạn của ba với bác Mại. Bà Linh Chi cũng là một nhà văn dám thu
hẹp một cơ sở làm ăn lớn để dành thì giờ lo chuyện viết lách. Lúc đó tôi có đọc
mấy bài của Trần thị Linh Chi trên tập san Nhớ Huế.
Trở lại sinh hoạt thường ngày của
gia đình ba mẹ ở Đalạt. Buổi sáng thường có người đàn ông Ấn độ, mang sữa dê bồi
dưỡng cho anh tôi, là đứa trẻ gầy còm vì bệnh . Anh nầy khi lớn lên khỏe mạnh,
phải mắc tật nói cà-lăm do hậu quả bệnh từ nhỏ...
Đáng nói hơn,cả một đại gia đình gồm ông bà chú bác anh em con
cháu nội ngoại của nhánh họ Phan làng Đốc Sơ thường quây quần bên những bàn ăn
rất lớn đặt giữa sân nhà, thoải mái tràn đầy niềm vui tiếng cười, trong đó nổi
bật lên vai trò của ba tôi và Bác Khải. Một chi tiết do anh Phan Tấn Trình kể
cho đàn em sau nầy thấy được cuộc sống của gia đình bác Cự và gia đình ba mẹ
tôi . Anh Trình nhớ lại lúc thiếu thời ở Đàlạt, ham chơi tối về nhà muốn ngủ,
anh ngủ luôn bên mẹ tôi như con của mẹ. Sáu chục năm sau, tình cảm nối kết nầy
không còn nữa .Lúc đám tang mẹ tôi,cánh Đàlạt chỉ một mình anh Trình về SaiGon
tiển biệt…
Năm
1962 , 16 năm sau ngày tản cư, anh tôi mới có dịp trở lại Đàlạt , và tìm đến
ngôi nhà cũ của ba mẹ. Loáng thoáng nhớ về cảnh cũ so với hiện trạng, thấy Đàlạt
đã thay đổi khá nhiều. Những cao ốc mọc lên sau nầy lấn át hẳn ngôi nhà cũ khiến
nó trở nên nhỏ bé. Rạp chiếu bóng vẫn còn đó , có thể được tu sửa nhiều lần ,
hài hòa giữa những cao ốc bên cạnh. Mười sáu năm trước, rạp thường chiếu những
phim chiến tranh, cao bồi, có cảnh xe tank , máy bay bốc cháy, và những con ngựa
nhảy chồm lên lao vào khán giả. Ngày ấy vẫn có thú vui thả diều trên đồi cỏ, xe
hoa diểu hành qua đường phố, và những khúc ca hùng tráng. Thỉnh thoảng còi báo
động vang lên inh ỏi vào giữa trưa khi máy bay Đồng Minh thả bom giãi cứu tù
binh Anh, Mỹ bị quân Nhật bắt giam tại đây. Đã có lần gia đình chúng tôi phải
vào trú ẩn trong hào tránh bom đã được đào sẳn quanh dưới chân một ngọn đồi...
Biến cố tháng tám bùng nổ, ba tôi phải bàn giao công
việc từ Tòa Công Sứ Pháp cho chính quyền
người Việt... Sau đó không lâu, có tin quân Pháp trở lại Việt Nam. SaiGon đã có
súng nổ . Đàlạt cũng sôi sục chuẩn bị chiến đấu, dân chúng trong thành phố phải
ra vùng ven lánh nạn.Trên chiếc xe tải mui trần, gia đình chúng tôi ra đi mang
theo vật dụng, thực phẩm , bỏ lại căn nhà sau khi khóa hết các cửa. Xe chạy về
hướng Đông Nam xuống vùng đồi Trại Hầm. Chỗ ở nằm trong khu đồn điền người Pháp
vắng chủ. Ngôi biệt thự màu nâu, rộng rãi, đã có nhiều người lánh nạn vào ở trước
khi chúng tôi đến. Sống tạm nơi đây một thời gian ,nhưng bọn nhỏ chúng tôi vẫn
còn được vô tư lên đồi thông bẻ chồi non, hái trái cà phê chín màu mận đỏ. Hàng
ngày mẹ và người giúp việc vẫn thường trở lại ngôi nhà cũ trên Đàlạt mua thêm
thức ăn, lấy lại một vài vật dụng cần thiết. Những chiều mờ tối từng toán trai
trẻ mang súng trường, gươm đao, có cả cung tên , chậm rãi đi trên các vùng đồi.Anh
tôi kể lại một lần giữa đêm tối cảnh giác, lính Pháp đang lùng sục truy tìm du
kích, bỗng tiếng khóc thét vang lên của tôi làm cho người bạn của ba tôi phải
ra tay trấn áp. Ông gọi tôi dậy, cầm một thanh gươm cán dài, rút lưỡi gươm sáng
lóe dọa cho chú bé câm tiếng...
Tình
hình diển biến nhanh chóng. Một hôm, ba tôi từ đâu về nhà giữa đêm khuya. Buổi
sáng trời nắng ấm, ông phát động một cuộc di tản . Ba tôi cõng bé gái út, tôi
làm biếng lì lợm không chịu đi,anh trai lớn phải cõng tôi . Mẹ ,chị tôi và anh
trai thứ hai còn nhỏ , mang vác đủ thứ vật dụng áo quần, thức ăn, bình đựng nước...
Cả đoàn è ạch đi với đôi chân nặng nhọc. Phải đi trong bao lâu mới hết đoạn đường
khổ nhọc nầy, không thể nhớ rỏ. Suốt con đường dài vắng hẳn bóng người, xe thì
chạy ngược chiều với chúng tôi. Hai bên đường toàn cả bụi rậm, phía xa trước mắt
là núi phủ mây mù. Đi mãi...đến lúc mặt trời khuất dần sau những ngọn núi. Đoàn
người lầm lủi đi giữa đêm đen. Mệt quá không bước nổi, phải ngồi bệt bên đường
nghỉ từng chặn ngắn. Đến hồi phía Đông lóe lên nguồn sáng đèn điện mờ vàng, cả
đoàn chỉ tay về phía đó, reo mừng hò hét quên cả mệt nhọc. Thị trấn Tháp Chàm ,
Phan Rang đây rồi... Phan Rang là nơi Ba Mẹ tôi thường hay về tắm biển
...
Đêm
trung tâm thị xã Phan Rang sáng dưới ánh đèn và ánh trăng. Chúng tôi bước vào một
ngôi đền , không rỏ là đình hay chùa, vì nhận ra các tượng thần uy nghi bên
trong. Ngoài sân bắt gặp những người đàn ông quần cụt ở trần không mảnh áo che
thân, nằm ngủ say trên những chiếc chiếu trải xiêng theo từng hàng đều nhau. Bầu
không khí ngột ngạt , chúng tôi tìm được chỗ nghỉ tạm bên ngoài ngôi đền là mái
hiên nhà ga xe lửa. Sáng hôm sau,chúng tôi dậy sớm, quang cảnh nhà ga hiện ra rất
lạ mắt,nhiều đường ray song song trãi dài ra tận chân núi. Một chiếc xe gòn nhỏ,trên
xe hai người đàn ông ngồi sụp xuống với một lá cờ đỏ....Chúng tôi ở đây chờ tàu
ra Huế...
Chuyến
tàu xuất phát vào buổi sáng sớm. Nhìn ra thấy một vùng nước xanh mênh mông với
nhiều tàu buồm. Qua khỏi một khúc quanh, xuất hiện chiếc xà-lup , như lời ba
nói, là chiếc tàu lớn với ống khói cao to ,vươn lên giữa biển trời.. Hành trình
ra Huế phải luân chuyển qua vài con tàu khác nhau và trải qua nhiều ngày, vì có
nhiều cây cầu trên lộ trình bị bom máy bay đánh sập. Một buổi chiều, con tàu
chui vào đường hầm , những đốm lửa than sáng đỏ bay vượt qua cửa . Khỏi đường hầm
nầy, một lúc sau không nhớ rỏ bao lâu, tàu lại chun vào một đường hầm khác dài
hơn phủ đầy bóng tối,sau nầy mới biết đó là hầm đèo Hải Vân. Ra khỏi đường hầm
nầy, hành trình đến Huế sắp kết thúc. Đến ga Huế, anh em chúng tôi thay quần áo
mới trước khi về nhà nội. Hai đứa bé, mặc đồng phục trắng của hướng đạo sinh, đội
mũ nồi đỏ , về đến làng quê nổi lên như một hiện tượng mới lạ trước mắt mọi người.
Ghé nhà nội thăm viếng, gặp gỡ bà con đâu một hai ngày, gia đình chúng tôi chuyển
ra sinh sống ở làng ngoại trong căn nhà của ba mẹ ngày cũ..."
Phan Tấn Uẩn
(Trích Hồi Ký BIẾT ĐÂU NGUỒN CỘI)
Comments
Post a Comment