ĐÀO TRUNG ĐẠO thi sĩ / thi ca (124)
ĐÀO TRUNG ĐẠO
(124)
Edmond
Jabès
Chương
3
Quyển Sách
Ở bìa 4 của LQ1 Jabès cho in tóm lược đính kèm (prière
d’inserer): “Quyển sách Câu hỏi là
quyển sách của ký ức, của lưu đầy và của lắng nghe; là chuỗi những tác phẩm mà
ba quyển đầu, nay được in gộp lại, tạo thành cái lõi trung tâm. Quanh một truyện
tình đơn giản và bi thảm của Sarah và của Yukel, quanh những tra hỏi ám ảnh về
đời sống, về Thượng đế, vể Do thái giáo, về tự do, về chọn lựa, về Bản văn, về
cái chết, làm nên tiếng vang đáp lại những câu hỏi và những suy tưởng của những
bậc hiền giả tưởng tượng, những nhà diễn giải đặc biệt của quyển sách.”[48]
Theo Jabès LQ1
tuy là bài tình ca và bài ca tang chế nhưng vẫn là bài ca hy vọng cất lên từ mỗi
trang sách. Bài ca này có tham vọng làm cho chúng ta chứng kiến sự ra đời và những
khoảnh khắc cuối cùng của một lời nói (parole) đã bị kết án từ trước và trong một
chiều kích nó thực hơn thực, nó chứng kiến sự tăng trưởng cái ngưỡng của sự khổ
đau, nỗi khổ đau này minh họa tính chất tập thể bị hành hình với lời than khóc
được nhắc đến mãi mãi bởi những nạn nhân.
Những bước chân của Yukel
dẫn tới cái chết, như bước trên cái chết của chính mình và của giống nói, bước trên
ý nghĩa cũng như sự vô nghĩa của mọi cái chết. Jabès nhận rằng chính mình là kẻ
buộc Yukel bước đi, là kẻ reo rắc những bước đi của Yukel trong quyển sách.
Nhưng cũng chính Jabès là người nghĩ tưởng đến Yukel, chấp lời Yukel, tìm kiếm
và đếm bước “vì ta là văn tự, ngươi là vết thương. Yukel, ta có phản bội ngươi
không? Và chắc chắn là ta đã phản bội ngươi. Ta đã chỉ giữ lại, giữa trời và đất,
vết cắt xuyên thấu ngây thơ nỗi khổ đau của ngươi. Ngươi là một trong những nhánh
nụ của tiếng kêu tập thể mặt trời nhuộm vàng. Ta đặt tên ngươi và tên của Sarah
vào trong tiếng kêu không chịu im bặt này, cho tiếng kêu hòa nhập vào hơi thở của cô ta và tiếng kêu đó
xưa cũ hơn tất cả chúng ta, cho tiếng kêu của mãi mãi, xưa cũ hơn cả hạt mầm.”[49]
Jabès ngỏ lời xin lỗi Yukel vì đã chấp lời, vì
Yukel là tiếng nói lịm tắt giữa những dối trá của giai thoại. Jabès
tự hỏi: làm sao Yukel có thể thốt lời vì Yukel chỉ mở miệng để tiếp tục kêu
gào, làm sao Yukel có sự ham muốn và kiên nhẫn để giải thích con đường đi của
mình.?
Sau Et tu seras dans le livre là Le
livre de l’absent/Quyển sách của người vắng mặt gồm ba phần: Phần thứ nhất
mở đầu bằng lời của giáo sĩ Reb Tal: “Tất cả mọi chữ tạo hình sự vắng mặt. Cũng
vậy Thượng đế là con cái của Danh xưng của Ngài ”[50] sau đó Jabès viết 13 tản mạn ngắn có liên quan
tới Quyển Sách, văn tự, nhà văn...Đoạn thứ nhất [1] là lời tự sự của chính Jabès
kẻ sống lưu đầy lang thang chạm mặt nghe ngóng những kẻ xa lạ trên đường phố. Nhưng
để quên đi tiếng nói của những kẻ xa lạ này hắn bước đi mải miết không nghĩ tới
trở về nhà, vì để “về nhà” phải có ký ức về thời gian và không gian. Giờ đây hắn
bước đi buông bỏ, không chủ động, trong tim và dưới chân có rất nhiều chiếc lá
đã chết. Kẻ vô xứ sống đong đưa chao đảo không phải vì sự mỏi mệt hiện tại
nhưng vì một sự mỏi mệt thiên niên kỷ đè nặng như muốn chôn vùi hắn. Hắn đã đi
qua rất nhiều con đường nhưng tất cả những con đường này vẫn chỉ là một con đường.
Tuy hắn tự hỏi: làm sao giải thích sự việc này nhưng hắn đã chẳng bao giờ biết giải
thich ra sao và bỗng nhận ra giờ đây mọi sự đã quá muộn màng. Thay vào đó hắn
mơ về những cái cối xay chạy bằng nước ở Phi châu, về lời ủy lạo kẻ chiến bại của
một giáo sĩ tù nhân, về tro cốt của những giáo sĩ ở một vùng đất Ả rập nào đó và
những lời nói của một giáo sĩ trong một thành phố. Với hắn giờ đây điều có thực
chẳng phải là những phố phường hắn đã đi qua mà là: hắn còn sống. Hắn bị ám ảnh
bởi một khuôn mặt với mái tóc bạch kim cắt ngắn [Sarah] và một tiếng kêu
[Yukel] trên đường phố nhưng “Nơi đây là nơi khác, nơi khác cột chặt vào cẳng,
đó không phải là một xứ sở cũng không phải là một lục địa mà tiếng kêu lên án,
nhưng là thế giới; đó không phải là một người nhưng là tất cả mọi người.”[51]
Thay
lời Yukel hắn quyết tâm trả thù cho Sarah vì Sarah là chân lý phán xét. Lang
thang hắn bỗng nhìn thấy hàng chữ viết bằng phấn trắng trên một bức tường được
đèn pha một chiếc xe hơi chạy qua vô tình rọi sáng “MORT AUX JUIFS/JEWS GO
HOME/GIẾT HẾT BỌN DO THÁI. LŨ DO THÁI HÃY XÉO VẾ NƯỚC” nhưng rồi hắn không nhớ
rõ đã nhìn thấy những khẩu hiệu này ở khu phố nào? Hay trên những bức tường tại
rất nhiều đường phố hắn đã đọc đi đọc lại mỗi khi dừng bước.
Đoạn thứ nhì [2] nhắc đến
Yukel như nhân chứng thầm lặng cùng những suy tưởng về viết với lời mở đầu: “Tuổi thơ là một vùng đất được nước thấm đẫm
trên đó những con thuyền giấy nhỏ bé trôi nổi. Rồi thì những con thuyền biến
thành những con bọ cạp; lập tức, cuộc sống bị giết chết từ từ bởi nọc độc. Nọc
độc ở trong mỗi tràng hoa, giống như trái đất ở trong mặt trời. Ban đêm, trái đất
tự dâng mình, nhưng con người ngủ yên một cách hạnh phúc. Trong giấc ngủ họ
không thể bị tấn công. Nọc độc là giấc mơ.”[52] Yukel kẻ thầm lặng thường được triệu thỉnh
trong quyển sách hắn viết – viết cho bàn tay hắn, cho cây bút của hắn, để làm
cho cái nhìn nhẹ nhõm bởi nếu hắn không viết thì bàn tay, cây bút, cái nhìn sẽ
ra sao? Bút thành vô dụng, rỉ sét, bàn tay sẽ vắng bóng không thấy trong từ
nào, chữ nào, cái nhìn sẽ đắm chìm trong trang giấy: “Chỉ có văn tự giữ cho cái
nhìn của nhà văn lộ rõ.” (Seule l’écriture maintient le regard de l’écrivain à
la surface.) Hắn tra hỏi nhưng không có thì giờ trả lời bởi có quá nhiều câu hỏi
chạy tuột khỏi tiếng nói của hắn, chúng tìm kiếm suốt dọc cánh tay hắn để tới
lòng bàn tay, cũng như rất nhiều sự ham muốn thắt chặt cây viết của hắn khiến
những ngón tay hắn xiết chặt cây viết nên hắn không biết đi theo con đường nào.
Hắn hiểu rằng luôn luôn phải tìm cho ra con đường. Một tờ giấy trắng chứa đầy
những con đường, có thể đi theo hướng phải hay trái và đôi khi cũng biết trước
khi trang giấy đen đặc những dấu chỉ ta sẽ xé bỏ. Tìm đường cả trăm ngàn lần từ
mũi, từ ngực, từ miệng, con đường của vầng trán và của linh hồn. “Và tất cả những
con đường này chúng có ngả riêng của chúng. – Bằng không, chúng sẽ không phải
là những con đường”[53] Thế nên tìm được đúng con
đường hẳn đó phải là một ân huệ. Hắn hồi ức kỷ niệm môt buổi trưa nọ lái xe lòng
vòng quanh quẩn nhiều hướng trong sa mạc và cuối cùng thấy mình đối diện với vô
tận, với hư vô, với trang giấy trắng.
Đoạn [3] bắt đầu về sứ mệnh
nhà văn: “Tôi tin tưởng vào sứ mệnh của
nhà văn.Nhà văn nhận sứ mệnh từ động từ mang vác sự khổ đau và niềm hy vọng của
hắn nơi sứ mệnh. Hắn tra hỏi những từ chúng cật vấn hắn, hắn đồng hành với những
từ đồnh hành với hắn. Sự khởi đầu là của chung và như thể xảy đến bỗng nhiên.
Trở thành hữu dụng với những từ – trong
việc sử dụng chúng – hắn cho đời sống của hắn và những từ một ý nghĩa sâu xa mà
chính đời sống của hắn phát khởi từ đó.”[54] Yukel vắng mặt vì hắn là người tự sự và chỉ có
câu chuyện là có thực. Yukel cũng là kẻ hủy bỏ những biên giới giữa đời sống và
cái chết. Jabès viết những đối thoại tưởng tượng với Yukel về cái giếng Yukel
đào trên đất Do thái – cái mảnh đất mà dân Do thái chẳng bao giờ cư ngụ – về nước
của giếng này không nơi đâu sánh bằng nhưng đã bị bỏ quên trong lòng bàn tay suốt
năm mươi thế kỷ. Và lời khuyên của giáo sĩ Reb Segré “Hãy mở rộng bàn tay để vùi
mặt trong đó, mặt sẽ biến đi như cây chạm nước.” Còn Reb Hakim đưa ra luận về
những ngón tay của bàn tay: ngón trỏ để nhận ra sao trời, ngón giữa là giấc
mơ...Và ngón trỏ được vị giáo sĩ này ưa thích nhất vì nó luôn sẵn sàng để quệt
khô nước mắt. Jabès tự hỏi phải chăng những quyển sách mình viết ra đã bồi thêm
sự thất vọng giữa mình và các người anh em đồng chủng, biến hy vọng thành thất
vọng vì tuy những câu mở đầu sách chứa chan hy vọng nhưng sự nghi hoặc đã lén
lút xen vào và dần dần nở rộ.
_________________________________
[48]
Le Livre des Questions est le livre
de la mémoire, de l’exil et de l’écoute; long cycle d’ouvrages dont les trois
premiers, aujourd’hui réunis, constituent le noyau central. Autour d’une idylle
simple et tragique, celle de Sarah et de Yukel, d’obsédantes interrogations,
sur la vie, Dieu, le judaïsme, la liberté, le choix, le Texte, la mort, font
echo à des questions et méditations de sages imaginaires, interprètes
priviligiés du livre.
[49]
LQ1 trang 38-39: [...] car je suis
écriture/et toi blessure./T’ai-je trahi, Yukel?/ Je t’ai sûrement trahi./ Je
n’ai retenu, entre ciel et terre, que la percée puérile de ta douleur./ Tu es
l’un des épis du cri collectif que le soleil dore./J’ai donné ton nom et celui
de Sarah à ce cri qui s’obstine/ à ce cri qui a épousé son souffre et qui est
plus ancien que nous tous,/à ce cri de toujours,/plus ancien que la grain.
[50]
LQ1 trang 51: Toutes les lettres
forment l’absence. Ainsi Dieu est l’enfant de Son Nom./Reb Tal.
[51]
LQ1 trang 55: Ici qui est ailleurs,
ailleurs enchainés à nos chevilles, ce n’est pas un pays que le cri met en
cause ni un continent, mais le monde; ce n’est pas un homme, mais tous.
[52]
L’Enfance est une terre baignée d’eau sur
laquelle flottent de petits bateaux en papier. Il arrive que les bateaux se
transforment en scorpions; alors, la vie meurt par le poison à chaque instant.
Le poison est dans chaque corolle, comme la
terre est dans le soleil. La nuit, la terre est livrée à elle-même, mais les
hommes dorment heureusement. Dans le sommeil, ils sont invulnérables.
Le poison est le rêve.
[53] LQ1 trang 59: Et tous ces chemins ont leurs chemins propres. –
Autrement, ils ne seraient pas des chemins.
[54] LQ1 trang 64: Je crois à la mission
de l’écrivain. Il la reçoit du verbe qui porte en lui sa souffrance et son
espoir. Il interroge les mots qui l’interrogent, il accompagne les mots qui
l’accompagnent. L’initiative est commune et comme spontanée. De les servir – de
s’en servir – , il donne un sens profond à sa vie et à leur dont elle est
issue.
(còn
tiếp)
ĐÀO TRUNG ĐẠO
Comments
Post a Comment